Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

  14/12/2021 17:26:09
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890 và mất Ngày 02/9/1969, vị lãnh tụ vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam đã đi vào cõi vĩnh hằng, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân ta và bạn bè quốc tế.

Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh

Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh

Thể theo nguyện vọng tha thiết của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, Bộ Chính trị Trung ­ương Đảng đã quyết định: “Với tấm lòng kính yêu vô hạn và đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây dựng Lăng của Người”.         

Công trình Lăng được khởi công xây dựng ngày 02/9/1973 và khánh thành ngày 29/8/1975. Nằm ở vị trí trung tâm Quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng theo phương châm “dân tộc và hiện đại”, “trang nghiêm nhưng giản dị”. Cấu trúc Lăng chia làm 3 phần: Phần nền xây kiểu bệ tam cấp theo phong cách cổ truyền của kiến trúc Việt Nam; phần thân Lăng cả 4 mặt đều có cột để tạo ra các khoảng trống tựa như các gian của những ngôi nhà 5 gian ở các miền quê Việt Nam; phần mái Lăng hình vát giật tam giác gợi lên nét kiến trúc cổ kính đình chùa. Toàn bộ khối Lăng được kết cấu bằng bê tông cốt thép và ốp đá quý cả trong lẫn ngoài, mang dáng vẻ một bông sen đang hé nở. Trước Lăng là cột cờ Tổ quốc nằm trên đường Hùng Vương.

Quảng trường Ba Đình

Quảng trường Ba Đình là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm trên đường Hùng Vương, trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quảng trường Ba Đình có khuôn viên rộng với nhiều ô cỏ lớn là hình tượng những chiếc chiếu trải trên sân đình ở các làng quê Việt Nam xưa, xen giữa là lối đi rộng 1,4 m. Giữa Quảng trường là cột cờ Tổ quốc.

Trước đây, Quảng trường là một khu vực nằm trong phạm vi Hoàng thành Thăng Long. Năm 1894, khi chiếm đóng Hà Nội, thực dân Pháp đã xây một vườn hoa nhỏ gọi là Quảng trường Tròn hay còn gọi là Quảng trường Pugininer. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Quảng trường Tròn được đặt tên là Vườn hoa Ba Đình hay Quảng trường Ba Đình. Tại đây, ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời gian Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947-1954), Phủ Toàn quyền Pháp đổi tên quảng trường là Vườn hoa Hồng Bàng. Năm 1954, quân ta về tiếp quản thủ đô và nơi đây lại được trả lại tên Quảng trường Ba Đình.

Từ ngày 19/5/2001, nghi lễ chào cờ hàng ngày được bắt đầu vào lúc 6 giờ (mùa nóng từ 01/4 đến 31/10) và 6 giờ 30 (mùa lạnh từ 01/11 đến 31/3 năm sau) và Lễ hạ cờ diễn ra lúc 21 giờ.

Trải qua bao biến cố lịch sử, Quảng trường Ba Đình đã trở thành một cái tên gần gũi và thiêng liêng, là niềm tự hào của nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước; nơi mà mỗi người dân Việt Nam và khách quốc tế đều mong được một lần đến thăm; là địa điểm thường xuyên được chọn để tổ chức các cuộc mít tinh, lễ kỷ niệm lớn mang tính lịch sử của đất nước.

Chiến sĩ bảo vệ lăng Hồ Chí Minh

Chiến sĩ bảo vệ lăng Hồ Chí Minh

Quá trình xây Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngày 18/6/1973 tại buổi lễ long trọng tháo gỡ lễ đài cũ để xây dựng Lăng Bác, thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh đã phát biểu:

 “Công lao của Hồ Chủ tịch đối với dân tộc ta, Tổ quốc ta như trời như biển.Hồ Chủ tịch là nhà Mácxit Lêninit vĩ đại, là lãnh tụ vô cùng kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân ta, của toàn thể dân tộc Việt Nam, đồng thời là chiến sỹ lỗi lạc của phòng trào cộng sản và công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

Cuộc đời của Hồ Chủ tịch là một tấm gương mãi mãi sáng ngời ý chí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong gần gũi quần chúng, khiêm tốn và giản dị.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, ra sức học tập tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người.Kiên quyết thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người và tiếp tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người.

Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây dựng Lăng Bác tại Quảng trường Ba Đình lịch sử để mọi người có thể đến viếng và chiêm ngưỡng …”.

“Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi là một công trình kiến trúc có ý nghĩa chính trị và tư tưởng to lớn, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân cả nước đối với Bác Hồ kính yêu. Đây là nơi nhân dân Việt nam, từ thế hệ này đến thế hệ khác sẽ đến chiêm ngưỡng để tỏ lòng biết ơn Hồ Chủ tịch. Công trình này sẽ góp phần xứng đáng ghi lại công lao và sự nghiệp của Bác Hồ sẽ góp phần xứng đáng động viên, nhắc nhở mọi người dân Việt Nam tăng cường đoàn kết, ra sức phấn đấu làm tròn nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Công trình này sẽ là niềm tự hào và vinh dự của dân tộc Việt Nam ngày nay và muôn đời về sau”.

Tổ Thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (Viện Thiết kế Dân dụng) do KTS Nguyễn Ngọc Chân (Viện trưởng) chủ trì.

Tổ Thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (Viện Thiết kế Dân dụng) do KTS Nguyễn Ngọc Chân (Viện trưởng) chủ trì.

Vì vậy, xây dựng Lăng Bác là nhiệm vụ vô cùng trọng đại trước quá khứ, hiện tại và tương lai.

Làm sao để Công trình Lăng Bác xứng đáng với thời đại.Thời đại rực rỡ, huy hoàng nhất trong lịch sử vinh quang của dân tộc ta xứng đáng với Bác Hồ, người anh hùng dân tộc vĩ đại nhất và cũng là người giản dị nhất, trong sáng nhất và thật là gần gũi. Đồng thời cũng làm sao cho Lăng Bác thể hiện được tấm lòng kính yêu vô bờ bến và đời đời nhớ ơn của nhân dân ta đối với Bác.

Trong Nghị quyết ngày 29/11/1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu ra những yêu cầu cơ bản đối với công tác thiết kế và xây dựng Lăng Bác. Những yêu cầu này là phương châm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thiết kế xây dựng Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình và các Công trình về Bác sau này (Bảo tàng Hồ Chí Minh...)

Các yêu cầu là:

- “Bảo đảm giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh nguyên vẹn và lâu dài, chống được các biến động có hại của khí hậu, thời tiết, có kế hoạch giữ gìn an toàn phòng chiến tranh, phòng địch phá hoại.

- Thể hiện được tính hiện đại mà vẫn giữ được màu sắc dân tộc, trang nghiêm nhưng giản dị.

- Bảo đảm được sự thuận tiện cho nhân dân, cán bộ và khách nước ngoài đến viếng đông và liên tục; bảo đảm sự kiên cố, bền vững của công trình;

- Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ở khu Ba Đình lịch sử và sớm xây dựng xong Lăng để đồng bào ta có thể viếng và chiêm ngưỡng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong năm 1971…”

Nhưng do phải chuẩn bị kỹ về các mặt, hơn nữa năm 1972 đế quốc Mỹ lại mở lại cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc dùng máy bay B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng một cách ác liệt, nên Bộ Chính trị đồng ý tạm dừng xây dựng Lăng.

Sau khi Bác Hồ qua đời, Trung ương Đảng và Chính Phủ ta đã đề nghị Trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô giúp đỡ giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và thiết kế, cung cấp vật tư, thiết bị, cử chuyên gia sang xây dựng Lăng. Và ngày 22/7/1970, đồng chí L.Bơ-rê-giơ-nép, Tổng Bí thứ BCH Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã gửi thư cho đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong việc xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 19/1/1970, BCH Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phê duyệt nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (tại Quyết định số 16/CP ngày 19/1/1970).

Tháng 1/1970, Đoàn đại biểu của Ủy ban Liên lạc kinh tế với nước ngoài thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô sang nước ta chuẩn bị Hiệp định giữa hai chính phủ và nhận bản nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lăng Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, khoa học kỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc. Thiết kế phải thể hiện được 4 phương châm mà Bộ Chính trị đã xác định là: hiện đại, dân tộc, trang nghiêm, giản dị.

Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng) cùng với Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức nhóm thiết kế phác thảo Lăng Bác trên cơ sở nhiệm vụ thiết kế đã được phê duyệt. Trong thời gian ngắn nhưng đã có 77 phương án của các cá nhân và tập thể. Trong số này chọn 5 phương án có thể hiện mô hình để báo cáo Bộ Chính trị, sau đó đã chọn 1 phương án để làm việc với Bạn.

Tháng 3 năm 1970, Việt Nam đã cử các kiến trúc sư sang Mátxcơva để cùng với Bạn tham gia thiết kế. Trong thời gian ở Liên Xô, các kiến trúc sư Liên Xô và Việt Nam đã thống nhất được 4 phương án mang về Việt Nam để trình duyệt.

Tháng 5 năm 1970, Bạn đã làm xong thiết kế sơ bộ và gửi sang Hà Nội để phê duyệt. Thiết kế sơ bộ này có rất nhiều điểm chưa đạt yêu cầu. Vì vậy Bộ Chính trị giao cho Bộ Kiến trúc, Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật và các ngành làm công tác thiết kế, phát động cuộc thi thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm tập hợp được nhiều tinh hoa và trí tuệ của các Kiến Trúc sư, kỹ sư, các văn nghệ sĩ, các nhà lão thành cách mạng và các tầng lớp nhân dân trong nước và ở nước ngoài.

Trong thời gian ngắn nhưng đã có hơn 200 phương án tham gia, trong đó có cả phương án của Việt kiều ở Pháp gửi về. Ban Tổ chức đã chọn ra 24 phương án có nhiều ưu điểm nhất để trưng bày lấy ý kiến của nhân dân. Cuộc triển lãm đã được tổ chức từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1970 tại 5 địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thái Nguyên, Sơn La. Đã có 745.487 lượt người đến xem và có trên 34 nghìn ý kiến tham gia. Cuộc triển lãm đã thành công tốt đẹp, tập hợp được trí tuệ của các tầng lớp nhân dân ở trong nước và kiểu bào ở nước ngoài.

Sau cuộc triển lãm, phía Việt Nam đã chọn lọc và hoàn chỉnh 1 phương án để làm việc với Bạn. Ta và Bạn đã thống nhất được phương án thiết kế sơ bộ để báo cáo lên hai Chính phủ.

Ngày 9 tháng 2 năm 1971, Hiệp định giữa hai Chính phủ về việc Liên Xô giúp Việt Nam thiết kế và xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức ký kết.

Cuối tháng 2 năm 1971, Bạn đưa thiết kế sơ bộ sang Việt Nam. Lần này phương án đã được bổ sung hoàn chỉnh theo ý kiến của phía Việt Nam, nên đã được Bộ Chính trị đồng ý và Chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định 44 - CP ngày 4 tháng 3 năm 1971.

Từ ngày 3 đến ngày 31 tháng 12 năm 1971 tại Hà Nội, Việt Nam và Liên Xô đã trao đổi bản thiết kế kỹ thuật Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai bên nhận thấy thiết kế kỹ thuật đã phù hợp với nhiệm vụ thiết kế sơ bộ nhưng cần bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể mà hai bên thấy chưa hợp lý. Được sự đồng ý của Bộ Chính trị, ngày 31 tháng 12 năm 1971, Chính phủ đã ra Quyết định 241 - CP phê duyệt thiết kế kỹ thuật.

Như vậy thiết kế sơ bộ dự định 6 tháng đã kéo dài hơn 1 năm, thiết kế kỹ thuật kéo dài 9 tháng.

Ngày 13/9/1971, Việt Nam và Liên Xô chính thức ký bản đặt hàng và chấp thuận số 84/75808 cho Công trình Lăng. Cũng từ đó công trường xây dựng Lăng Bác còn mang tên Công trường 75808.

 

Sau khi thiết kế kỹ thuật đã được phê duyệt, Bạn khẩn trương thiết kế thi công. Để sát hơn với điều kiện Việt Nam, ta đã cử 7 kiến trúc sư, kỹ sư thuộc các ngành xây dựng, điện, nước, thông hơi cùng Bạn tham gia thiết kế. Bạn cũng đề nghị Đoàn Việt Nam đảm nhận công tác thiết kế kết cấu, trang trí ở những vị trí quan trọng như: Sảnh chính, phòng thi hài, cửa gỗ và các cấu kiện bằng đồng.

Công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh do Viện nghiên cứu thiết kế Cục Tổ chức xây dựng Mátxcơva chủ trì cùng với các viện và các viện thiết kế chuyên ngành khác. Chủ trì thiết kế là kiến trúc sư Garon Ixacovich, người đã được nhận giải thưởng Lênin về thiết kế công trình lưu niệm ở thành phố Ulianopxco quê hương Lê nin. Kiến trúc sư Garon Ixacovich cùng với 2 chuyên gia khác là Đê bốp - Viện sỹ, Giám đốc Viện Khoa học giữ gìn thi hài Lê nin người có công lớn giúp ta giữ gìn thi hài Bác và Tổng Công trình sư Metvedep, Tổng Công trình sư xây dựng Lăng Bác. Sau khi xây dựng xong Công trình Lăng đã được Nhà nước ta tuyên dương Anh hùng lao động.

Kiến trúc sư Garon còn chủ trì thiết kế Bảo tàng Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa lao động hữu nghị Việt Xô và tượng đài Lê nin ở Hà Nội.

Theo dự kiến giữa ta và Bạn thì giai đoạn lập bản vẽ thi công và thiết kế tổ chức thi công dự định kéo dài 12 tháng và định khởi công xây dựng Lăng vào mùa khô năm 1972÷1973. Nhưng tháng 4 năm 1972 đế quốc Mỹ lại ném bom miền Bắc nên Chính phủ hoãn xây dựng Lăng.

Đầu năm 1973, Hiệp định Pari được ký kết, miền Bắc bước vào thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế, Chính phủ ta quyết định khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để khởi công xây dựng Lăng vào mùa khô 1973-1974. Từ tháng 4 năm 1972 Bạn ngừng việc thiết kế Lăng Bác để thực hiện các kế hoạch khác. Vì vậy tháng 6 năm 1973 hai Chính phủ mới ký Nghị định thư về việc Liên Xô tiếp tục thiết kế và giúp đỡ xây dựng Lăng. Ta yêu cầu Bạn cố gắng giúp đỡ để Công trình Lăng hoàn thành và đưa vào sử dụng vào dịp kỷ niệm 30 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945÷1975).

Bạn thiết kế khẩn trương, nhưng vẫn không kịp tiến độ thi công, mãi đến tháng 8 năm 1974, sau 1 năm khởi công ta mới nhận được các bản vẽ thi công cuối cùng.

Nhìn chung đồ án thiết kế đã thực hiện đúng nhiệm vụ thiết kế, có chất lượng cao. Các tác giả thiết kế chính đều là những chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm. Với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng và với tình cảm và lòng kính yêu vô hạn đối với Bác Hồ, nên các cơ quan thiết kế và các tác giả đã làm hết sức mình để cho Lăng Bác thật sự là công trình kiến trúc vĩ đại, có độ bền vững cao, trang trí hài hòa và có các hệ thống thiết bị hiện đại, có cơ số dự phòng cao.

Tuy nhiên vì Bạn ở xứ lạnh nên chưa am hiểu hết khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của ta nên một số mặt kỹ thuật xử lý chưa thích hợp. Bạn chưa hiểu sâu tập quán của Nhân dân ta và các chuyên gia của Việt Nam cũng mới tham gia thiết kế công trình đặc biệt này nên thiếu kinh nghiệm. Vì vậy có một số giải pháp kỹ thuật chưa hợp lý nên trong quá trình sử dụng phải bổ sung hoàn thiện.

quảng cảnh lúc thi công xây lăng

quảng cảnh lúc thi công xây lăng

QUY MÔ HÌNH THÁI CÔNG TRÌNH

Quảng trường Ba Đình là quảng trường lịch sử. Nơi đây ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường là trung tâm của Thủ đô, nơi diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước.

Vì vậy sau khi Bác mất, Bộ Chính trị và Chính phủ quyết định xây dựng Lăng Bác ở Quảng trưởng Ba Đình. Quyết định này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, đúng như lời đồng chí Lê Duẩn: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta...”.

Chức năng chính của Lăng

Chức năng quan trọng nhất của Lăng là bảo đảm giữ gìn lâu dài thi hài Bác, bảo đảm thuận tiện cho số lượng lớn Nhân dân và khách nước ngoài đến viếng Bác liên tục. Đồng thời Lăng cần phải bảo đảm an toàn phòng chiến tranh, phá hoại.

Để bảo đảm các nhiệm vụ trên, ngoài việc tạo ra môi trường lý tưởng nhờ công trình kiên trúc, còn có các hệ thống thiết bị hiện đại có độ dự phòng cao hoạt động liên tục suốt ngày đêm để bảo đảm môi trường không khí tinh khiết, đặc biệt là giữ ổn định nhiệt độ và độ ẩm theo yêu cầu của công tác y tế giữ gìn thi hài Bác. 


 

 Lăng Bác nằm trên quảng trường rộng, xung quanh là những công trình có tầm cao cả về lịch sử và kiến trúc. Theo tập quán của dân tộc ta, Phòng Bác nằm được đặt cao hơn lễ đài của các vị đại biểu đứng vào những ngày lễ lớn. Mặt khác khi xây dựng Lăng nước ta chưa xây dựng các Công trình thủy điện ở Sông Đà, nên vào mùa mưa lũ, nước sông Hồng dâng cao, có nguy cơ vỡ đê, nước tràn vào Hà Nội. Với những yếu tố đó đòi hỏi Lăng phải có tầm cao tương xứng.

Ở sau Lăng có hai bức tường cao ốp đá đỏ chạy song song với hai Lễ đài trái và phải, phía trước bức tường là sân rộng và có nhiều ô trồng hoa hồng. Bức tường này làm chức năng kết thúc không gian phía sau của Lễ đài trái và phải.

Kiến trúc Công trình Lăng

Lăng Bác gồm có công trình trung tâm và 2 lễ đài phụ hai bên.

Hình khối của Lăng phải đơn giản rõ ràng. Lăng gồm một bệ và 3 cấp nhỏ dần theo chiều cao; tạo thành một thế đứng vững chãi, trang nghiêm, mang đậm nét độc đáo của kiến trúc dân tộc Việt Nam. Phần mái Lăng cũng hình thành tam cấp một cách nhẹ nhàng, thanh thoát; ở đây không có đường cong, nhưng hình tam cấp kết hợp khéo léo với những đường vát chéo làm cho mái Lăng vừa mang những nét gọn gảng, giản dị của kiến trúc hiện đại, vừa phảng phất dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển của mái cong kiến trúc cổ truyền dân tộc. Thân Lăng là một phòng vuông vắn, bốn mặt là hàng cột đỡ mái, tạo ra dáng dấp của ngôi nhà 5 gian. Bốn cột ở 4 góc có kích thước 1,2x1,2 m, còn các cột còn lại có kích thước 1,2x0,9 m.

Ở tam cấp của Lăng có Lễ dài chính (Lễ đài Chính phủ) có chỗ cho 70 - 100 người đứng dự mít tinh.

Bên trong Lăng và hai Lễ đài là phòng đặt thi hài, các phòng phục vụ, phòng y tế, phòng kỹ thuật, hai phòng khách và các hệ thống thiết bị kỹ thuật như: Điện, nước, thông hơi, điều hòa, thông tin, cơ khí và các cầu thang, lối ra vào...

Vật liệu trang trí bên ngoài Lăng phải bảo đảm tính giáo dục tư tưởng, tính kỹ thuật thẩm mỹ cao, vĩnh cửu tối đa. Do vậy tường bên ngoài Lăng ốp bằng đá hoa cương dày 4 – 6 cm. Khối chính Lăng ốp bằng đá hoa cương có các màu ghi sáng và sẫm để tạo không gian chỗ sáng tối, xa gần. Khối trung tâm ốp đá hoa cương màu đỏ, đó là căn phòng vĩnh cửu của Bác Hồ chúng ta. Các loại đá hoa cương này do Liên Xô sản xuất.

Bố cục bên trong Lăng

Đường từ cửa chính Lăng đến phòng Bác nằm được tính toán kỹ, bảo đảm cho người vào viếng Bác quen dần với độ sáng, độ ẩm, độ mát cần thiết. Bước vào Lăng, trên bức tường đá hoa cương màu đỏ sẫm gắn dòng chữ mạ vàng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và chữ ký của Bác, đã gây xúc động mạnh cho người vào viếng. Hai bên sảnh chính là là hai cầu thang lên xuống. Trần cầu thang uốn cong làm cho ánh sáng mờ dần để khi vào phòng Bác nằm để người đi viếng nhìn Bác rõ hơn, những nét đặc trưng của Bác lúc sinh thời vẫn còn nguyên vẹn. Hai bên cầu thang là 2 hai sảnh rộng có hàng cột ốp bằng đá cẩm thạch màu đen của núi Nhồi Thanh Hóa. Tường của sảnh được ốp bằng đá cẩm thạch màu trắng hồng để tạo ra không gian rộng rãi phong quang đầy trang nghiêm xúc động.

Phòng Bác nằm là một khối lập phương 10x10x10m được ốp bằng đá cẩm thạch màu trắng tinh khiết có dải đá đen làm cột giả. Khoảng tường sát trần được ghép đá màu đen, tạo hình những đóa sen cách điệu. Tường ở đầu phòng Bác nằm là hai lá cờ Đảng và cờ Tổ quốc được ốp từ 4000 mẩu đá nhỏ màu đỏ tươi. Đá lấy từ vùng Bá Thước, Thanh Hóa. Diện tích hai lá cờ là 32m2 Đá vàng dùng để ghép ngôi sao và hình búa liềm cũng khai thác ở Thanh Hóa. Ngôi sao cờ Tổ quốc rộng 0,7 m. Phía đầu cán búa của cờ Đảng và chính giữa ngôi sao cờ Tổ quốc là hai mẩu đá mã não màu vàng quý hiếm của đồng bào miền Nam gửi ra kính dâng lên Bác

Hai lá cờ vinh quang được ốp bằng đá quí của hai miền đất nước như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo đầy sáng tạo. Nghệ thuật ghép đá tinh tế làm cho hai lá cờ giữ được vẻ mềm mại như đang vờn bay trên mái tóc bạc phơ của Bác. Ở đây ta thấy Bác, Đảng, Tổ quốc đã hòa quyện vào nhau.

Tường lan can chạy quanh phòng Bác nằm được ốp bằng đá Cẩm Vân Thanh Hóa. Mặt đá mịn hòa hợp với màu nâu đỏ tạo nên một vẻ giản dị và cao quý.

Bác nằm trong quan tài pha lê trong suốt đặt trên bệ đá hoa cương màu đen có những hạt sáng lóng lánh. Bác nằm yên nghỉ, ánh sáng mờ, dịu, yên tĩnh và trang nghiêm, gây cho người viếng nỗi xúc động và thương tiếc.

Bệ hòm kính có hoa văn chạm nổi là những cánh sen cách điệu bằng đồng trang trí theo phong cách dân tộc, có sự tham gia của các nhà kiến trúc, họa sỹ, điêu khắc Việt Nam.

Mặt hòm kính có góc nghiêng 24o để nhìn thấy Bác được rõ ràng, không biến hình, biến sắc.

Để các cháu thiếu nhi khi vào viếng Bác, được nhìn thấy Bác rõ hơn, năm 1978, Bộ Tư lệnh Lăng đã làm thêm bục gỗ, tách biệt với lối đi của người lớn. Giải pháp sáng tạo này tuy nhỏ, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, đã được tác giả thiết kế Lăng Bác và Nhân dân đi viếng đồng tình và đánh giá cao.

Ở hai bên sảnh chính là hai phòng khách sang trọng để các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đại biểu khác ngồi nghỉ ngơi trước khi ra lễ đài dự mít tinh. Tường của hai phòng khách được ốp bằng đá cẩm thạnh màu trắng có nhiều vân tựa như mây bay. Đá này được khai thác ở Hòa Pháp, Hà Tây (cũ).

Công tác trang trí bên ngoài và bên trong Lăng

Toàn bộ mặt ngoài Lăng được ốp bằng đá hoa cương do Liên Xô sản xuất, có màu xám đậm. Đá dày từ 4 – 6 cm có kích thước lớn (0,9 x 1,2 m) Các viên đá sản xuất ở Liên Xô theo đúng bản vẽ thiết kế, chở đến công trình và lắp vào vị trí không phải gia công nhiều. Những viên đá xếp theo quy cách thống nhất đã tạo cho Lăng dáng vẻ hiện đại, trang nghiêm, thành kính.

Ở mặt trước mái Lăng, trên nền đá hoa cương màu xám nhạt có dòng chữ: “CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH” bằng đá ngọc bích lấy ở bản Pien, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng có màu mận chín, nổi nhiều vân đẹp như khảm xà cừ. Kiểu chữ chân phương, nét chữ thanh mảnh. Nét chữ CHỦ TỊCH cao 42 cm, rộng 8 cm, nét chữ HỒ CHÍ MINH cao 72 cm, rộng 150 cm. Tất cả dòng chữ có diện tích là 2,88 m2. Dòng chữ  này được khảm sâu vào mặt đá hoa cương một cách rất tỷ mỉ, nghệ thuật điêu luyện, tài hoa. Dòng chữ đã gây xúc động mạnh cho dòng người trước khi vào Lăng viếng Bác.

Khi bước vào Lăng nhìn dòng chữ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và chữ ký của Bác được mạ vàng gắn trên tường đá hoa cương màu đỏ sẫm đã làm cho người đi viếng bồi hồi xúc động nhớ lại lời của Bác là chân lý ngàn đời.

Trang trí, ánh sáng, màu sắc, nhiệt độ đã tạo cảm giác trang nghiêm, đầm ấm cho người vào viếng để dẫn dắt đến nơi mà mọi người hằng mong đợi: Phòng đặt thi hài Bác. Chủ đề tư tưởng của phòng này là: Đảng, Tổ quốc và Bác đã hòa quyện vào nhau Bác như đang nằm ngủ với bộ quần áo và chiếc gối quen thuộc, rất giản dị và vô cùng gần gũi với Nhân dân.

Trong Lăng có hơn 200 bộ cửa làm bằng gỗ quý do đồng bào và chiến sỹ miền Nam gửi ra được các thợ mộc tay nghề cao của Việt Nam gia công. Toàn bộ đá ốp ngoài Lăng là đá hoa cương hơn 6000 m, bên trong là đá hoa cương và cẩm thạch hơn 4600 m2.

 

Nhận xét một số nét về nghệ thuật kiến trúc Công trình Lăng

Mặt bằng được sắp xếp gọn gàng chặt chẽ, đơn giản và khoa học. Đường đi từ sảnh đến phòng viếng không cầu kỳ quanh co, rất thuận tiện cho người đi viếng.

Nhìn toàn bộ Công trình Lăng, các khối kiến trúc chính, phụ, các mảng đặc tả, rỗng, sáng, tối được phân bố rõ ràng và gắn bó với nhau thành  một khối cân đối, gọn gàng, vững chắc và trang nghiêm. Những đường ngang, nét đứng vuông thành sắc cạnh là những nét đơn giản, trong sáng và gọn gàng đã tạo cho Lăng hình dáng hiện đại va giản dị, trang nghiêm.

Khối chính bao quanh có hàng cột đỡ mái, tỷ lệ tương xứng, hình khối chắc khỏe, màu sắc đậm, nhạt khác nhau, cho ta cảm thụ về tầm cao, độ lớn của Lăng, biểu hiện độ vươn cao của Công trình.

Tính hiện đại còn biểu hiện ở phương án kết cấu, các giải pháp hiện đại để chống lại các biến đổi của thiên nhiên, chống động đất, chống bom đạn.

Tính hiện đại còn thể hiện ở các hệ thống thiết bị để giữ gìn lâu dài thi hài, tạo điều kiện tốt cho người đi viếng.

Tính dân tộc: Ngày xưa các chùa chiền, lăng tẩm đều xây dựng bằng phương pháp bố cục đối xứng, Lăng Bác cũng vậy đã tạo ra thế trang nghiêm, cân đối của công trình.

Tính dân tộc còn thể hiện ở chỗ thi hài Bác được đặt cao hơn tầm đứng của người trên Lễ đài Chính phủ (Lễ đài chính) mà vẫn thấy Bác gần gũi với nhân dân với các đồng chí lãnh đạo, những người kế tục sự nghiệp của Bác. Hàng chữ “CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH” được đặt ở vị trí cao nhất, trang trọng nhất với những nét chữ, trang nghiêm, giản dị. Ở sảnh chính trên tường đá hoa cương màu đỏ có lời nói giản dị nhưng chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và chữ ký của Bác. Các cửa ở Lăng làm bằng gỗ quý: Trắc, gụ, nu, muồng... của đồng bào Miền Nam gửi ra, do các nghệ nhân Việt Nam gia công, lắp đặt.

Việc tổ chức không gian trong phòng thi hài với tỷ lệ tương xứng giữa các mảng tường, các chi tiết kiến trúc, trang trí nghệ thuật, màu sắc đậm nhạt và vị trí đặt thi hài... tạo sự hài hòa, cân đối, trong sáng, trang nghiêm, giản dị. Bên ngoài phòng đặt thi hài bốn phía là hành lang giống như ngững ngôi ngà dân gian. Hàng cột đỡ mái chia thành 5 khoảng, cho ta bóng dáng ngôi nhà 5 gian quen thuộc trong kiến trúc Việt Nam.

Bốn cột góc của Lăng hình vuông (1,2x1,2 m) gây ấn tường về thế cân bằng, vững chắc, ổn định của Lăng. Mái Lăng hơi vát có độ nghiêng vừa phải, nhắc lại bóng dáng mái đao trong công trình cổ. Mái có tỷ lệ cân xứng làm cho Lăng nhẹ nhàng trang nhã.

Nhìn chung toàn bộ Công trình Lăng là một hệ 3 cấp giảm dần theo chiều cao; bố cục này thấy ở các công trình văn hóa, nghệ thuật, lăng tẩm...làm tăng thêm vẻ bề thế của Công trình.

Kiến trúc của Lăng không thể sao chép kiến trúc của đền, chùa hoặc ảnh hưởng màu sắc kiến trúc tôn giáo mà dựa vào truyền thống và đặc điểm dân tộc có sự cách điệu và hiện đại hóa, biểu hiện thời đại chúng ta đang có sự thay đổi lớn lao về vật chất và  tinh thần, ý thức văn hóa.

Lăng là công trình xây dựng được ốp đá, có đường nét kiến trúc giản dị, không trang trí rườm rà và đã đạt yêu cầu về tỷ lệ bố cục, màu sắc hài hòa tạo cho Công trình nỗi xúc động sâu sắc, có nội dung và hình thức hoàn chỉnh, thật sự đã mang ý nghĩa lớn lao về chính trị, văn hóa, nghệ thuật...

QUẢNG TRƯỜNG BA ĐÌNH VÀ SÂN VƯỜN

Cùng với việc thiết kế, xây dựng Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình lịch sử cũng được thiết kế, cải tạo, và xây dựng lại to đẹp hơn, trang nghiêm hơn, hiện đại hơn để tương xứng với ý nghĩa lịch sử to lớn. Đây là nơi Nhân dân ta biểu dương lực lượng, ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là nơi hội tụ của các thế hệ hôm nay và mai sau về đây viếng Bác và tham quan những di tích lịch sử thời đại Hồ Chí Minh. Vì vậy, Bộ Chính trị đã quyết định: Quảng trường Ba Đình và vườn hoa tiếp giáp phải hoàn thành cùng với Lăng để đón mừng Quốc khánh.

Nhiệm vụ thiết kế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/9/1973. Ban phụ trách xây dựng Lăng giao cho Bộ Kiến trúc và Đoàn kiến trúc sư Việt Nam tổ chức cuộc thi quy hoạch Quảng trường. Các tổ chức và cá nhân đã gửi 20 phương án và mô hình vẽ tham gia. Ban Phụ trách xây dựng Lăng đã báo cáo lên đồng chí Trường Chinh cho ý kiến và đúc kết thành nột phương án để trình Bộ Chính trị trước khi gửi sang Liên Xô.

Tháng 4 năm 1974, Bạn mang phương án thiết kế cải tạo Quảng trường và vườn hoa tiếp giáp Lăng để Việt Nam xem xét phê duyệt. Vì thời gian gấp nên Bạn quy hoạch hạn chế trong phạm vị 14,5 ha để kịp thi công cùng với Lăng. Ban Phụ trách đã tổ chức cho các ngành có liên quan nghiên cứu phương án của Bạn và đề nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình của ta. Những ý kiến thay đổi đã báo cáo với Bộ Chính trị ngày ngày 1 tháng 5 năm 1974 và giao cho Bạn tiếp tục nghiên cứu thiết kế, thi công. Ngày 7 tháng 5 năm 1974, biên bản làm việc giữa ta và Liên Xô được ký kết, bản thiết kế của Liên Xô đã được phê duyệt.

Theo thiết kế này thì Quảng trường Ba Đình: vườn hoa tiếp giáp và Lăng Bác là một quần thể kiến trúc thống nhất. Tổng diện tích cải tạo và xây dựng là 14ha.

Quảng trường ở phía trước Lăng diện tích là 2,8 ha chứa khoảng 10 đến 20 vạn người dự mít tinh. Quảng trường chia thành 168 ô vuông có kích thước mỗi ô 10x10m để trồng cỏ bốn mùa. Giữa các ô cỏ là lối đi lát bằng gạch sỏi nổi rộng 1,4m. Ở phía bắc Quảng trường có vườn hoa dự định nơi đây sẽ xây dựng Đài tưởng niệm các anh hung liệt sĩ, nhưng xét thấy không hợp lý nên Đài tưởng niệm đã xây dựng ở đường Bắc Sơn đối diện với Lăng Bác.

Đường Hùng Vương đi qua trước Lăng làm bằng bê tông cốt thép, dài 1060m rộng 40m, riêng đoạn trước Lăng rộng 60m. Đường Bắc Sơn dài 280m rộng 60m chia ra làm 2 làn ở giữa là vườn hoa rộng 12m. Sau này ở cuối đường Bắc Sơn đã xây dựng Đài tưởng Niệm các Anh hùng liệt sỹ và năm 1998 đã đưa vào sử dụng.

Trước Lăng Bác là cột cờ cao 25m với lá cờ Tổ quốc tung bay trước gió. Ngày 06 tháng 12 năm 2014 Cột cờ trước Lăng được thay mới có chiều cao 27m được chế tạo tại CHLB Đức, cùng với hệ thống tủ điều khiển tự động. Lăng và Quảng trường được chiếu sáng bằng hệ thống đèn cao áp thủy ngân, có 4 cột đèn ở 4 góc Quảng trường cao 32m. Năm 1995 đã thay hệ thống chiếu sáng của Liên Xô trước đây bằng hệ thống chiếu sáng của Pháp và Phần Lan đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật và tiết kiệm năng lượng.

Trên Quảng trường còn bố trí các hệ thống truyền thanh truyền hình để phục vụ cho các ngày lễ lớn và hàng ngày. Năm 2000 để trồng lại các thảm cỏ của Quảng trường và xây dựng hệ thống phun tưới tương đối hiện đại cho Quảng trường  với vườn hoa xung quang Lăng. Tháng 5 năm 2015 hệ thống tưới phun sân cỏ Quảng trường được đưa vào vận hành.

Công tác thiết kế và trồng cây xanh ở Lăng và Quảng trường

Trồng cây xanh, cỏ ở xung quanh Lăng và Quảng trường Ba Đình phải đạt các yêu cầu sau:

- Phải được chọn lọc sắp xếp theo thiết kế, phối hợp chặt chẽ với kiến trúc của Lăng và các công trình xung quanh.

- Cây hoa, cây cỏ trồng ở đây phải có tính dân tộc, phong phú, đẹp, đặc trung cho xư nhiệt đới, xanh tươi 4 mùa.

- Kích thước, màu sắc, hình dáng, sinh lý cây trồng phù hợp với Lăng.

- Kết hợp với cây trồng ở khu vực để tránh đơn độc.

Ban phụ trách xây dựng Lăng đã huy động các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu Bộ Xây dựng, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Tổng cục Lâm nghiệp, Công ty công viên Hà Nội... Sau 3 tháng nghiên cứu, bản thiết kế cây xanh ở Lăng Bác và Quảng trường Ba Đình đã hoàn thành vào tháng 5/1974.

Bản thiết kế đã thể hiện bố cục cảnh trí cổ truyền kết hợp với chức năng của Công trình  kiến trúc hiện đại.

Các vườn hoa tổ chức theo lối hình học đối xứng, hàng lối ngay thẳng, xen tỉa gọn gàng phù hợp với Công trình. Các loại cây trồng ở đây có lá xanh quanh năm, tán cây rộng, bộ rễ ít ăn ngang.

Hai hàng vạn tuế trước 2 lễ đài phụ, có thân thẳng, lá xum xuê trên ngọn, trông trang nghiêm tựa 2 hàng tiêu binh, cây cao 1 - 1,5 m không che khuất tầm nhìn của đại biểu trên lễ đài.

Hai bên cửa chính  trồng 2 cây đại, cây không cao, dáng mập cổ kính, hoa trắng càng làm cho Lăng trang nghiêm.

Hai loại cây này sống lâu năm, tượng trưng cho sự trường tồn mà nhân dân ta thường trồng ở các đền thờ, Khu di tích.

Các ô vuông xung quanh Lăng trồng cây hoa có hương thơm mà lúc sinh thời Bác ưa thích như: Mộc, nhài, dạ hương, tường vi.

Vườn hoa sau Lăng trồng các loại cây hoa, cây có quả tượng trưng cho các vùng miền.

Hàng ngọc lan sau tường lưu niệm có lá màu xanh sáng có hoa thơm dịu, kín đáo tượng trưng cho sự dịu hiền, nhân đức cùng với hàng cây dâm bụt đã khép lại không gian sau Lăng.

Luồng Thanh Hóa trồng thành khóm ở hai bên Lễ đài, góp phần kết thúc phần kéo dài chiều ngang của công trình.

Trên đường Hùng Vương trồng cây trò nâu ở Phú Thọ, đất tổ Hùng Vương phù hợp với yêu cầu kiến trúc vừa có ý nghĩa chính trị và lịch sử.

Trên đường Bắc Sơn: Cây dầu nước có nhiều ở miền Nam vừa thích hợp với kiến trúc vừa có ý nghĩa: cây của miền Nam trồng ở Lăng Bác. Cây hoa Ban của núi rừng Tây Bắc cũng được trồng ở đây, tượng trưng cho lòng trung thành thủy chung của đồng bào các dân tộc Tây Bắc với Bác.

Ngoài ra ở vườn sau Lăng còn trồng cây đa TânTrào, cây đào Tô Hiệu là những cây gắn liền với các sự kiện lịch sử của dân tộc ta.

Việc chọn các loại cây với ý nghĩa tượng trưng của chúng, kết hợp với Quảng trường bằng thảm cỏ xanh độc đáo, làm cho Lăng có sắc thái dân tộc phong phú. Cây cỏ ở đây là những loài cây quí; tiêu biểu cho các miền, các dân tộc, các nôi lịch sử, có cây Bác hằng yêu thích.

Phụ lục 1: Những mốc thời gian về thiết kế, xây dựng Lăng Bác.

  • Ngày29 tháng 11 năm 1969: Bộ Chính trị quyết định về việc giữ gìn thi hài Bác và xây Lăng.
  • Ngày 19 tháng 1 năm 1970: Bộ Chính trị thông qua nhiệm vụ thiết kế Lăng Bác. Nhiệm vụ này được phổ biến rộng rãi trong giới kiến trúc sư, văn hóa nghệ thuật và những người làm công tác thiết kế.
  • Ngày 03 tháng 11 năm 1970: Trung ương Đảng, Chính phủ thành lập Ban Phụ trách xây dựng Lăng Hồ Chủ tịch.
  • Ngày 03 tháng 11 năm 1971: Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Ban Chỉ huy công trường xây dựng Lăng Hồ Chủ tịch.
  • Ngày 04 tháng 3 năm 1971: Bộ Chính trị đồng ý, Chính phủ phê duyệt thiết kế sơ bộ.
  • Ngày 31 tháng 12 năm 1971: Chính phủ có quyết định duyệt thiết kế kỹ thuật.
  • Ngày 16 tháng 4 năm 1972: Mỹ ném bom trở lại miền Bắc, công việc tạm dừng.
  • Tháng 3 năm 1973: Hiệp định Pari được ký kết, công việc lại được tiến hành.
  • Ngày 19 tháng 6 năm 1973: Tháo gỡ Lễ đài cũ.
  • Ngày 02 tháng 9 năm 1973: Chính thức khởi công đào móng công trình.
  • Ngày 27 tháng 10 năm 1973: Đổ mẻ bê tông đầu tiên vào móng công trình.
  • Ngày 19 tháng 05 năm 1974: Đổ xong bê tông phần ngầm công trình.
  • Ngày 30 tháng 10 năm 1974: Đổ mẻ bê tông cuối cùng ở khu Trung tâm.
  • Ngày 01 tháng 11 năm 1974: Ốp viên đá đầu tiên ở phòng khách trái và bắt đầu lắp đặt thiết bị công trình.
  • Ngày 01 tháng 7 năm 1975: Bàn giao phòng thi hài cho y tế.
  • Ngày 12 tháng 6 năm 1975: Chạy thử máy lạnh phục vụ phòng thi hài.
  • Ngày 18 tháng 7 năm 1975: Đón Bác về Lăng.
  • Ngày 19 tháng 8 năm 1975: Nghiệm thu Quốc gia toàn bộ công trình.
  • Ngày 29 tháng 8 năm 1975: Khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí

Phụ lục 2: Những sản vật quý ở các địa phương trong cả nước gửi về xây dựng Lăng Bác.

Mặc dù trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào miền Nam từng giờ từng phút hướng về Hà Nội nơi đang khẩn trương xây dựng Lăng Bác, để sớm được đón đồng bào cả nước về Lăng viếng Bác, đặc biệt là đồng bào miền Nam đi trước về sau, nhưng chưa một lần được gặp Bác. Khi được tin Trung ương Đảng, Chính phủ quyết định xây dựng Lăng Bác, đồng bào và chiến sĩ miền Nam vừa đánh giặc vừa náo nức đi tìm các sản vật quý giá nhất của địa phương để gửi ra Hà Nội dâng lên Lăng Bác, tiêu biểu nhất là:

- Các loại gỗ quí như: Gỗ nu, trắc, đinh hương, mun, sơn huyết, kim giao, cẩm lai, lát, giổi...Những loại gỗ quý này đã gia công hơn 200 bộ cửa ở Lăng và các đồ nội thất khác. Các loại gỗ đã được đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, Bình Trị Thiên khai thác. Đoàn xe vận chuyển gỗ đầu tiên khởi hành ở Lộc Ninh ngày 14/02/1974 và ra Hà Nội ngày 01/03/1974.

- Vàng Bồng Miêu tỉnh Quảng Nam gửi ra để mạ chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và chữ ký của Bác ở tường tiền sảnh.

- Đá quý Mã Não: 2 viên đá nhỏ gắn vào sao vàng, búa liềm ở cờ Tổ quốc, cờ Đảng trên tường phòng Bác Hồ nằm.

Ngoài ra, đồng bào các địa phương miền Nam còn có ngừoi gửi cây quý để trồng trong vườn Bác: Bông sứ, mai vàng, mai tứ quý, bưởi Biên Hòa, dừa Bình Định, quế Trà My, mít Tố Nữ, mãng cầu xiêm, huệ Đà Lạt. Đặc biệt cây quế là cây thiêng của đồng bào Tây Nguyên.

Cây dầu nước trồng hai bên đường Hùng Vương cùng với cây hoa ban Tây Bắc.

Ở miền Bắc tất cả các tỉnh, thành, các bộ, các ngành đều cử những cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và những thanh niên nam, nữ ưu tú nhất về làm việc ở công trường xây dựng Lăng Bác. Ngoài ra các địa phương đã gửi những sản vật quý giá nhất về xây dựng Lăng Bác:

- Đã tìm kiếm được hơn 300 mẫu đá gửi về Hà Nội, nhưng đã tuyển chọn được các loại đá để ốp trong Lăng Bác:

+ Đá đỏ ở Bá Thước, Thanh Hóa dùng để ốp thành 2 lá cờ Tổ quốc và cờ Đảng trong phòng Bác nằm.

+ Đá Ngọc Bích khai thác ở Bản Piên, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng được gia công chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh khảm vào đá hoa cương ở mặt trước của Lăng  và bậu cửa chính.

+ Đá núi Nhồi, Thanh Hóa có màu đen nhánh ốp ở hàng cột sảnh cầu thang lên xuống.

+ Đá Hòa Pháp, Hà Tây có màu trắng, vân mây ốp ở hai phòng khách sang trọng nhất trong Lăng.

+ Đá Cẩm Vân, Thanh Hóa: Ốp lan can ở phòng Bác nằm

Những loại đá, sỏi, cát để xây dựng Lăng:

+ Đá Thác Bà, Yên Bái để đổ bê tông.

+ Cát Kim Bôi, Hòa Bình để đổ bê tông và lấp hố móng.

+ Sỏi Sông Lô, Tuyên Quang để gia công tấm bê tông sỏi nổi lát vỉa hè các lối đi ở Quảng trường.

+ Xi măng: Nhà máy xi măng Hải Phòng sản xuất loại xi măng đặc biệt mác 400.

Những loại cây ở các địa danh lịch sử đã đem về trồng ở Lăng Bác.

+ Cây chò nâu ở đất Tổ trồng ở hai bên đường Hùng Vương.

+ Cây đa Tân Trào, Tuyên Quang: Trồng sau Lăng.

+ Cây đào Tô Hiệu: Trồng trong vườn.

+ Cây hoa ban ở núi rừng Tây Bắc: Trồng ở đường Bắc Sơn.

+ Tre luồng Thanh Hóa: Trồng hai bên Lễ đài.

+ Hàng vạn tuế, hai cây đại trồng trước Lăng.

Ngoài ra trong vườn Lăng Bác còn có các cây hoa, cây cảnh tiêu biểu như: Hoa đào, nhài, mộc, trúc Pắc Bó, ngâu hoa vàng, ngâu hoa trắng, dạ hương, ngọc lan, mẫu đơn, tường vi, ngọc bút, dâm bụt, hoa hồng, mai vàng...

Vườn Hoa Ba Đình

vòng xuyến Puginier trước khi đổi thành Vườn Hoa Ba Đình

vòng xuyến Puginier trước khi đổi thành Vườn Hoa Ba Đình

Lăng Hồ Chí Minh được xây tại nơi người đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tức tại "vườn hoa ba đình", vậy, ý nghĩa của tên "vườn hoa ba đình" là gì, hẳn it người biết đến và du lịch thám hiểm việt nam sẽ tiếp tục đưa các bạn hiểu thêm thông tin lịch sử và ý nghĩa của tên địa danh này:

Nguồn gốc 2 tiếng "Ba Đình" :

Ba Đình là địa danh xã Ba Đình ngày nay của huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hóa), gắn liền với cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Đinh Công Tráng(1842 - 1887) cầm quân trong thời gian 1886 - 1887 dưới thời Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Trước khi phiên hiệu “xã Ba Đình” ra đời, ở vùng đồng chiêm trũng ngày đó có 3 làng Mỹ Khê, Hương Thọ và Mậu Thịnh. Mỗi làng có một ngôi đình, được xây ở vị trí tiện quan sát, không có vật chắn phía trước. Nhìn từ đình làng Mỹ Khê, dứt khoát phải thấy các đình Hương Thọ và Mậu Thịnh. Nơi đây, khi mùa mưa đến, mỗi ngôi đình như một ốc đảo nhỏ giữa mênh mông đồng nước. Đến được đình, chỉ có thể bằng đường độc đạo.

Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp ồ ạt xâm lược nước ta trên diện rộng. Nhân dân tỉnh Thanh Hóa lúc đó nói chung và dân nghèo huyện Trung Sơn (nay là huyện Nga Sơn), trong đó có người dân ở 3 làng Mỹ Khê, Hương Thọ và Mậu Thịnh vùng dậy đấu tranh chống Pháp. Nổi bật cuộc đấu tranh thời ấy là Phong trào Cần Vương. Các thủ lĩnh của phong trào như Phạm Bành, Đinh Công Tráng đã họp bàn cùng các tướng lĩnh về kế hoạch xây dựng căn cứ Ba Đình, đồng thời kêu gọi người dân góp tre, rơm rạ để xây dựng căn cứ công sự. Dân 3 làng Mỹ Khê, Thượng Thọ và Mậu Thịnh đã nhường nhà cửa, vườn tược, chuyển đi ở nơi khác để nghĩa quân xây căn cứ. Nhờ vậy, chỉ trong một tháng, căn cứ Ba Đình đã được tạo dựng thành một cụm cứ điểm chiến đấu hết sức kiên cố. Cũng chính từ căn cứ này, nhiều nghĩa sĩ, người dân đã chiến đấu anh dũng và hy sinh tại đây, trong đó có Anh hùng Đinh Công Tráng.

Tháng 7.1945, Hà Nội tiến hành đổi tên một số đường, trong đó có việc đổi một số tên đường có chữ tây mang chữ ta. Khi đó, vườn hoa Puginier trước Phủ Toàn quyền được đổi tên thành vườn hoa Ba Đình. Người đổi tên các tuyến đường lúc bấy giờ là Bác sĩ Trần Văn Lai - người Việt Nam đầu tiên giữ chức Thị trưởng Hà Nội. Giải thích về việc phải đổi tên đường, Giáo sư Lê Văn Lan cho biết: “Hầu hết các tên đường lúc đó ở Hà Nội đều đặt theo tiếng Pháp, do người Pháp đặt. Ví dụ Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch) đặt là Merlin, mang đậm chất lịch sử văn hóa Pháp. Trong khi đó, những người yêu nước, người có công, nghĩa sĩ của ta thì không được vinh danh. Vì vậy việc đặt tên đường, tên phố ở Hà Nội lúc đó là một cải cách có ý nghĩa và tiếng vang lớn”.

Sau khi bác sĩ Trần Văn Lai qua đời, ngày 30.8.1945, Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh đã mời Bác sĩ Trần Duy Hưng làm Thị trưởng Hà Nội. Một trong những nhiệm vụ mà ông Trần Duy Hưng được giao lúc đó là tiếp tục công việc của ông Trần Văn Lai đã làm: Xây dựng dự án và ra duyệt y việc đổi tên và đặt tên toàn bộ các đường phố và công trình công cộng của Thủ đô Hà Nội theo nguyên tắc xoá bỏ tàn tích thực dân, tôn vinh các chiến công và danh nhân Việt Nam, bảo tồn các địa danh truyền thống trong đó có tên của các phố, phường trong khu phố cổ và tiếp thu có điều chỉnh những quyết định của người đi trước mình.

Trước ngày 2.9.1945, vườn hoa Ba Đình đã thành địa điểm lịch sử khi được chọn để xây dựng lễ đài. Lễ đài ấy, ngay trên cổ có bồn hoa cỏ hình tròn, có vòng xuyến rộng rãi. Đây chính là nơi hội tụ nửa triệu người lúc đó làm lễ “Thề độc lập”. Tại đây, ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công bố Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào.

Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 tại Vườn Hoa Ba Đình

Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 tại Vườn Hoa Ba Đình

Vườn hoa Ba Đình lúc đó là nơi “Lễ trường hằng ngày” của người dân Hà Nội. Sau sự kiện “Thề độc lập” tại đó, Ủy ban Hành chính Hà Nội đã quyết định đổi tên chính thức vườn hoa Ba Đình thành vườn hoa Độc Lập. Đến thời gian thực dân Pháp trở lại tạm chiếm Hà Nội (1947-1954), Thị trưởng Hà Nội là Dược sĩ Thẩm Hoàng Tín đã đổi tên vườn hoa Độc lập thành vườn hoa Hồng Bàng, nhằm cho xứng hợp với tên đường Hùng Vương chạy dọc hướng Bắc - Nam kéo dài từ hồ Tây qua. Mãi đến sau ngày giải phóng Thủ đô (10.10.1954), Bộ Tuyên truyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới quyết định đổi tên gọi lại vườn hoa Hồng Bàng thành vườn hoa Ba Đình như trước đây, đồng thời bảo lưu địa danh nơi Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập.

Câu hỏi là vậy từ năm 1969 đến năm 1975 (là 6 năm), thi hài bác giữ ở đâu?

Khu K9 -Đá Chông

Khu K9 -Đá Chông

Trong 6 năm (1969 - 1975) cán bộ, chiến sĩ Đoàn 69 (đơn vị tiền thân của bộ tư lệnh bảo vệ lăng) đã sát cánh cùng với chuyên gia Liên Xô vượt qua bao thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và lũ lụt, âm thầm, lặng lẽ vượt qua những khó khăn, gian khổ, lập lên những chiến công thầm lặng, bí mật: 6 lần di chuyển thi hài Bác thành công, làm thuốc, bảo quản giữ gìn và bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khu di tích K9, nơi giữ thi hài bác

Khu di tích K9, nơi giữ thi hài bác

Giai đoạn chuẩn bị giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tháng 5/1967, Bộ Chính trị đã triệu tập một cuộc họp bất thường để bàn việc bảo vệ sức khoẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chuẩn bị giữ gìn thi hài Bác lâu dài sau khi Người qua đời, do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trì.

Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã cử 3 đồng chí: Thiếu tá bác sĩ Nguyễn Gia Quyền, Chủ nhiệm Khoa giải phẫu bệnh lý Quân y Viện 108; bác sĩ Lê Ngọc Mẫn, Chủ nhiệm Khoa Nội tiết Bệnh viện Bạch Mai và bác sĩ Lê Điều, Chủ nhiệm Khoa Ngoại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô sang Liên Xô học tập về khoa học giữ gìn thi hài từ ngày 02/9/1967 đến 4/1968.

Tháng 6/1968, thành lập Tổ y tế đặc biệt thuộc Quân y Viện 108 và điều động các đồng chí Lê Ngọc Mẫn, Lê Điều vào quân đội tham gia Tổ y tế đặc biệt, để chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đi xa. Nhiệm vụ của Tổ y tế đặc biệt trong thời gian này là:

- Tổ chức bồi dưỡng học tập nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ nhân viên trong tổ, tiếp tục sưu tầm thêm những tài liệu, những cuốn sách viết về phương pháp ướp xác cổ truyền của dân tộc và của phương Đông...

- Chuẩn bị trang thiết bị y tế cần thiết. Tổ chức thực tập để các cán bộ, nhân viên thành thạo nghiệp vụ và phát hiện ra những vấn đề mới nảy sinh do môi trường ở Việt Nam khác với Liên Xô. Được sự giúp đỡ của Viện Quân y 108, Cục Quân y và Bộ y tế, công tác thực tập, thực nghiệm đã được tiến hành.

Cùng với việc thành lập Tổ y tế đặc biệt, Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Công binh xây dựng công trình (mật danh 75A) ở phía sau nhà tang lễ Quân y Viện 108 để phục vụ công tác giữ gìn thi hài Bác. Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định Quảng trường Ba Đình sẽ là nơi tổ chức lễ tang khi Bác từ trần và Hội trường Ba Đình sẽ là nơi đặt thi hài Bác để nhân dân và bầu bạn quốc tế tới viếng Bác trong những ngày lễ tang. Bộ Tư lệnh Công binh tiếp tục được giao nhiệm vụ xây dựng Công trình này với mật danh 75B.

Khu K9 -Đá Chông

Khu K9 -Đá Chông - Căn cứ TW thời chống Mỹ

Thực hiện nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm chiến tranh (1969 - 1975).

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, thi hài của Người được chuyển về Quân y Viện 108. Các đồng chí trong Tổ y tế đặc biệt và các chuyên gia Liên Xô sát cánh bên nhau, tiến hành từng thao tác kỹ thuật thận trọng, tỷ mỷ, chính xác rất cao. Những nét đặc trưng trên khuôn mặt, đôi tay, làn da, râu, tóc của Bác được giữ đúng như khi Người còn sống.

Ngay trong những ngày lễ viếng Bác, Đoàn chuyên gia y tế Liên Xô đề nghị sau lễ truy điệu cần đưa Bác sang Liên Xô để giữ gìn lâu dài. Chỉ có ở Matxcơva mới đủ điều kiện về môi trường và trang thiết bị. Vì ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, cơ sở vật chất thiếu, lại đang có chiến tranh ác liệt, nên việc giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp muôn vàn khó khăn.

Ngày 29/11/1969 Bộ Chính trị đã quyết định: “Với tấm lòng kính yêu vô hạn và đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây dựng Lăng của Người...”

Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, đế quốc Mỹ có thể tráo trở tiếp tục ném bom trở lại miền Bắc với quy mô ác liệt hơn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định vừa giữ Bác ở công trình 75A, mặt khác phải lựa chọn K9, nơi Bác đã chọn làm căn cứ của Trung ương, để cải tạo, khi cần sẽ di chuyển thi hài Bác tới đó. Sau hơn ba tháng thi công, ngày 15/12/1969 công trình hoàn thành và để giữ bí mật, K9 được đổi tên thành K84.

Khu di tích K9 còn lưu giữ 3 chiếc xe từng 6 lần chở thi hài Bác

Khu di tích K9 còn lưu giữ 3 chiếc xe từng 6 lần chở thi hài Bác

Lần đầu tiên di chuyển thi hài Bác từ Công trình 75A lên K84

Đúng 23 giờ ngày 23/12/1969, đoàn xe đặc biệt được lệnh xuất phát. Sau hơn bốn giờ hành quân, thi hài Bác đã đến K84 an toàn. Từ đó K84 thay thế 75A làm công tác giữ gìn thi hài Bác.

Ngày 16 tháng 2 năm 1970, theo đề nghị của Ban Chỉ đạo, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Đoàn 69 (đồng chí Nguyễn Gia Quyền làm Đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Hanh làm Chính uỷ) trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu có nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lần thứ hai di chuyển thi hài Bác từ K84 về 75A

Đêm ngày 20 rạng sáng ngày 21 tháng 11 năm 1970 máy bay Mỹ đã liều lĩnh tập kích bất ngờ bằng đường không vào một trại giam giặc lái Mỹ ở ven thị xã Sơn Tây. Để bảo đảm tuyệt đối an toàn, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định di chuyển Bác về lại Hà Nội. Đêm ngày 03 tháng 12 đoàn xe lặng lẽ rời căn cứ K84, đến 3 giờ sáng ngày 04 tháng 12 năm 1970 đoàn xe di chuyển thi hài Bác về đến 75A.

Lần thứ ba di chuyển thi hài Bác từ 75A lên K84

Mùa thu năm 1971, miền Bắc xảy ra những trận mưa lớn, nước sông Hồng lên cao, Thủ đô Hà Nội bị đe dọa ngập lụt. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định di chuyển Bác trở lại căn cứ K84. 11 giờ trưa ngày 19/8/1971, đoàn xe được lệnh rời 75A đưa Bác tới K9 vào chiều tối cùng ngày.

Lần thứ tư di chuyển thi hài Bác từ K84 sang H21

Năm 1972, Mỹ leo thang đánh phá trở lại miền Bắc, K84 ở xa nhưng lại nằm trên đường bay của Không quân Mỹ khi chúng bay vào đánh phá Hà Nội. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định di chuyển thi hài Bác từ K84 đến H21. 21 giờ ngày 11/7/1972, đoàn xe chở thi hài Bác rời K84, vượt sông Đà đến H21 an toàn.

Lần thứ năm di chuyển thi hài Bác từ H21 về K84

Sau chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không của Mỹ bằng B52 vào Hà Nội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định đón Bác về K84. 21 giờ ngày 08/02/1973 (mùng 4 Tết) đoàn xe được lệnh xuất phát đưa Bác về lại K84.

Đón Bác về Lăng

Ngày 2/9/1973, Công trình Lăng Bác được khởi công, sau hai năm xây dựng công trình hoàn thành. Đúng 16 giờ ngày 18/7/1975, đoàn xe đặc biệt chở thi hài Bác được lệnh xuất phát. 20 giờ đoàn xe đưa Bác về tới Quảng trường Ba Đình. Các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước đã chờ sẵn đón Bác vào Lăng. Giờ phút ấy thật trang nghiêm, xúc động sau những năm tháng phải tạm xa Người, Người phải tạm xa Thủ đô yêu dấu.